Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012

QUÊ TÔI - ( PHONG TRẦN. Hưng Nhơn-Hải Hoà- HL-QT)

 
Thoáng quê Tôi là trưa chiều oi ả
Nắng vươn mình qua những rặng tre xanh
Con đường làng cong mình như lơi lả
Cánh đồng làng trải thảm một màu xanh
                          ***
Thấp thoáng xa xa dáng Mẹ Tôi yêu dấu
Tảo tần sớm hôm trên đồng lúa xanh tươi !
Hình bóng Cha lúc hoàng hôn buông xuống
Vẫn miệt mài với đồng án ruộng trưa !!
                         ***
Mỗi lần xa quê thêm một lần nhung nhớ !!
Tôi lại về trong những sớm bình yên !
Nhẹ nhàng ơi cho Tôi tình thương nhớ ,..
Chốn thanh bình chỉ mãi chốn Quê hương !!
                                                Phong Trần
 
 http://www.facebook.com/phong.tran.180

THIỆP MỜI DỰ LỄ KHÁNH THÀNH LĂNG MỘ NGÀI THƯỢNG TIỀN HIỀN KHAI CANH HỌ LÊ VĂN ( LÀNG HƯNG NHƠN- HẢI HOÀ-HẢI LĂNG- QUẢNG TRỊ)


              LỊCH SỬ NGÀI  THƯỢNG TIỀN HIỀN KHAI CANH
Vào thời vua Lê Thánh Tông 1481 từ rừng Châu Hoan Nghệ Tĩnh, Ngài cùng anh ruột mình đã từ giã quê hương ruột thịt tiến vào Nam khai hoang lập ấp.
          Đi mãi, đi mãi mới dừng chân tại vùng Câu Hoan đất hứa,
          Một đồi cát, một vùng lau sậy bạt ngàn,một thiên nhiên khắc nghiệt,nhưng với ý chí kiên cường dũng mãnh, Ngài đã biến nơi đây thành ruộng lúa phì nhiêu
Năm 1492 lại một lần nữa chia tay với anh mình đi xa hơn một bước, Ngài đặt chân đầu tiên tại vùng đất trũng này và đặt tên là Vĩnh Hưng, cũng nơi đây Ngài đã sống và vĩnh biệt thiên thu
Mãi về sau Vĩnh Hưng được đổi thành Hưng Nhơn ngày nay
          Do những công lao to lớn,Ngài đã được Vua Lê ban tặng” TIỀN KHAI CANH SẮC TẶNG DỰC BẢO TRUNG HƯNG LINH PHÒ”.
Con cháu ngày nay nhớ ơn Ngài, dựng bia xây mộ, cẩn kính tôn thờ 
                                                                   BỔN TỘC LÊ VĂN ĐỆ NHẤT
                                                                         Lượt bút  



TOÀN CẢNH LĂNG MỘ NGÀI THƯỢNG TIỀN HIỀN KHAI CANH HỌ LÊ VĂN,
TẠI CỒN MỒ NẬY LÀNG HƯNG NHƠN XÃ HẢI HOÀ- HẢI LĂNG -QUẢNG TRỊ


 Hưng nhơn, ngày 25 tháng 7 năm 2012
            Kính Thông báo !
            TM HỌ LÊ VĂN
                Trưởng Tộc

            LÊ VĂN HUẤN
Số điện thoại liên lạc: 0979084692

Chủ Nhật, 22 tháng 7, 2012

MÙA GẶT - thơ VÕ THỊ NHƯ MAI

 Bài viết đăng trên trang 

http://vovanhoaqt.vnweblogs.com/post/10775/373631

alt


Thơ đề ảnh của NGUYỄN NHƯ KHOA

CHƯA VỀ THĂM RỐN LŨ

HƯNG NHƠN ĐÃ VÀO MÙA

NÔNG NGHIỆP CƠ GIỚI HOÁ

ĐẤT TRỜI CŨNG CHÀO THUA !
                                     Võ Văn Hoa


alt


MÙA GẶT

Em gửi đến tôi quê hương
Qua bức tranh Hưng Nhơn mùa gặt
Vạt nắng ươm vàng thóc mẩy căng óng mướt
Chẽn lúa trĩu oằn quyện má rám, mồ hôi

Tôi yêu quê mình thuở chị hát đưa nôi
Đất nước ru tôi khúc ca người nông dân chân chất
Chiền chiện mắt nâu giọng líu lo rót mật
Ông cắm nhánh mạ xuống bùn bà nhóm lửa thổi rơm

Đất nước trong tôi mỗi ngày một lớn hơn
Nỗi nhớ niềm thương bay cao theo cánh diều ngược gió
Bức tranh ngày mùa vẽ tuổi thơ tôi dải yếm buồm mây
Hồn quê thanh tao, ống kính mỏng nghĩa dày

Những hạt gạo đi muôn nẻo khắp trời
Có nhớ bàn tay của người gặt hái?
Nước Việt của tôi trải qua bao gian nan khổ ải
Mới dâng được cho đời khung cảnh bình yên

Thôn xóm tôi dịu hiền
Nửa đêm thức cùng trăng lao xao đập lúa
Cho tôi được mảnh mai áo lụa
Yêu thương và tự hào
Quê tôi
Việt Nam 

                              Võ Thị Như Mai14/9/2011

Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012

Hai làng An Thơ và Hưng Nhơn



     Trong Ô châu cận lục, huyện Hải lăng có 49 xã, ghi từ An thư (An Thơ), Vĩnh Hưng (Hưng Nhơn) Văn quĩ,Câu nhi…đến xã thứ 49 là Dâu Kinh. Có phải Dâu Kinh bây giờ là Phú Kinh?. Nếu Dâu Kinh là Phú Kinh sao không ghi vào tổng An Thơ. Thời gian nào thì Phú Kinh vào Tổng An Thơ? (sẽ tìm hiểu sau).
 
    An Thơ là một làng đồng thời dùng làm tên Tổng, qua đó ta có thể biết ngay đó là một làng lớn.
MỘT GÓC CỦA LÀNG AN THƠ NGÀY NAY
   Tuổi nhỏ của tôi, nhờ ở gần làng An Thơ (chỉ cách 200m) nên được hưởng những “kỳ quan” của An Thơ như những cây cừa cổ thụ có bóng mát xanh rờn, có ghế xi măng láng bóng, ngồi ngắm ra dòng sông chảy xiết trong veo. Đoạn đó, bên kia là Cồn Nổi nhô ra tạo hình sông eo lại chừng mươi lăm mét mà mặt sông phía trên Bến Ngã Ba (Hưng Nhơn) rộng mênh mông. Có lẽ sợ xói lở nên làng đắp kè bằng  xi măng vĩnh cữu. Mức nước nơi biên giới giữa hai làng chênh lệch cao độ chừng trên dưới 20, dòng nước chảy như thác tạo ra dòng xoáy cả trên mặt nước và cả chiều sâu, người ta gọi là Vực Nước Lụn (độ sâu không biết, bởi không ai dám lặn xuống vì cho rằng dưới đó có những con vật dử, làm chết người).  Dưới vực sâu đó năm 1947, người ta bắt được con Trẹng (như ba ba) dễ chừng trên 100 kg. Đặt tấm ván trên mai trẹng, hai người đàn ông đứng trên nó chạy băng băng.
    Phía sau những cây cừa cổ thụ là ngôi chùa lớn, có hồ sen, những bông sen trắng đẹp những lá dừa đội lên đầu mát rượi, tôi và Nguyễn Đức Chiêu mò xuống trộm hoa và gương sen, may quá ông từ bắt được khi chúng tôi chưa bẻ bông nào, nên được tha và tôi còn nói lí nhí là thích lá sen đội đầu ông tin và cho hai đứa hai lá. Thật là hú vía!
    Ở bờ kè đá, nước trong đến mức nhìn được những con cá bống lượn lờ giữa các viên đá. Móc mồi câu, chúng tôi rê mồi tới tận miệng cá và cứ thế rê đến lúc nó cắn mồi, thấy chắc chắn mới giật. Đã giật là chắc
    Khi tôi 8 tuổi học trường Tổng, thầy tổ chức thi bơi lội. Địa điểm bơi là từ Bến Nước Lụn bên này sang dưới chân Cồn Nổi. Bơi cũng được lặn cũng được, miễn là sang được bên kia và về lại bên này là đậu. Tôi được cấp “bằng bơi lôi”. Bố làm cho một khung gỗ treo lên tường. Ai đến chơi mẹ tôi cũng khoe và họ gọi tôi là “cậu khoá”.
    Tôi bắt đầu biết thưởng thức cái đẹp của vị trí này là vào mùa gặt tháng tư năm1946. Số là chiều đó tôi đang ngồi câu cá thì Đoàn Văn công Ty Thông tin tuyên truyền tỉnh Quảng Trị, dừng lại ngồi ghề đá và bờ kè để hóng mát dưới bóng các cây cừa cổ thụ. Tôi nghe họ reo lên thú vị, vừa vỗ tay vừa chỉ chỉ xuống mấy chiếc thuyền đang chèo dưới sông. Tôi nhìn thấy bốn, năm chiếc thuyền chở lúa chở đất (đất đôộc đôộc) từ dưới vực nước lụn đi lên. Mỗi thuyền từ 8 đến 10 tay chèo khoát nước tung bọt trắng xoá với những cánh tay rắn chắc, những mái chèo đều đặn theo nhịp hò, khoan hò hụi của người tát nước để cố vượt lên dòng nước khắc nghiệt. Đò qua khỏi dòng nước xiết, các mái chèo thả lỏng, chỉ còn người lái loáy ngoáy cầm chừng. Một anh trong Đoàn hích vào tôi: em có thấy mấy cô gái má hồng, mắt sáng mồ hôi nhể nhại đang ngoảnh nhìn chúng ta, thấy không, thấy không. Anh ấy nhộn thật, tôi cũng vui lây, các anh chị vui vẻ lạ thường. Phần tôi thì cảnh này ngày nào chẳng thấy, nhưng nào biết cái đẹp ở góc độ nào.

    Năm 1947  phía VNCH về đóng đồn ở khu miếu Ngài Võ Địch Đại tướng quân và cả khu vực chùa đền chân cầu Vực Nước Lụn. Chúng chặt hết cây cối của khu miếu và chặt phá cả những cây cừa cổ thụ làm cho cảnh quan vùng đó mất cả vẻ thâm nghiêm và thơ mộng.
Miếu VÕ ĐỊCH ĐẠI TƯỚNG QUÂN NGÀY NAY , nơi giáp ranh giữa hai Làng Hưng Nhơn và An Thơ
    Sau này mới ý thức rằng giữa các làng có ranh giới. Giữa  Hưng Nhơn và An Thơ là đất liền từ trong khu dân cư ra tận Càng khoảng 5 km. Những năm sau này tôi mới chú ý  thấy ở trong này một cọc mốc xi măng (sẽ nói rỏ sau), ngoài Càng một viên đá tự nhiên không ghi chữ, lại nữa ở cồn (nơi chôn người chết) nếu không đọc chữ ở bia thì không biết ngôi mộ ấy là người làng trên hay làng dưới. Tôi nghỉ ranh giới giờ đây là trí nhớ suốt 5 km chiều dài.
    Do có đi thực tế và quan sát rồi suy ngẫm và đặt câu hỏi; Tại sao Hưng Nhơn giáp An Thơ mà trên cọc mốc và nhiều bài viết khác lại dùng giáp Mĩ chánh. Nghiên cứu một số tài liệu tôi biết Mĩ Chánh là thôn hay phường của làng An Thơ, dĩ nhiên chưa phải là làng (là đơn vị hành chánh). Chính trong Ô châu Cận lục không có làng Mĩ Chánh.
    Ngoài Càng thì giáp ruộng Mĩ Chánh, trong khu dân cư  cọc mốc mà Gia Long năm thứ X cũng ghi một phía là Vĩnh Hưng xã và phía kia ghi Mĩ Chánh thôn. Hai xã giáp nhau thì phải ghi bên này Vĩnh Hưng xã, bên kia An Thơ xã mới đúng. (Vĩnh Hưng đến đời vua Tự Đức mới đổi là Hưng Nhơn).     
     Mĩ chánh có tài liệu cho rằng đâ được tách trước 1792  lúc Hoàng đế Quang Trung còn sống, bởi Mĩ Chánh có người con gái đẹp Nguyễn Thị Bích, thứ phi của Quang Trung nên được Triều đình cho tách để lập một làng  (Vấn đề tồn nghi)
   Xin trích một văn bản :
   Bà Nguyễn Thị Bích (cuối Tk 18 đầu Tk 19)
 Người làng Mỹ Chánh- An Thơ là thứ phi- Vợ của Hoàng đế Quang Trung
  Theo tông phổ dòng họ Nguyễn viết bằng chữ Hán ở làng Mỹ Chánh, huyện Hải lăng tỉnh Quảng trị thì cô con gái út của ông Nguyễn Văn Cẩn (1712-1771) và bà Nguyễn Thị Ai (1714-1772).Ông giữ một chức quan nhỏ vào mạt kỳ thời chúa Nguyễn ở Phú Xuân, đã gả cho vua Quang Trung.
     Nguyên văn tông phổ chữ Hán ghi:
  “Nguyễn Thị Bích giá vu Quang Trung Hoàng đế, bổn thôn xuất đinh, tịch tự thử thuỷ tốt vu cửu nguyệt, sơ thập nhật, mộ tại Vĩnh An thôn, gò Thỏ xứ”.
    Tài liệu cũng cho biết vào đầu thế kĩ thứ 18, dân làng An Thơ lên lập nghiệp, sinh sống ở Mỹ Chánh, quá trình tụ cư diễn ra nhanh chóng nhưng chưa được chính quyền cho xác lập là một làng chính thức; Cho đến thời Tây Sơn, khi làng có người con gái xinh đẹp gả cho vua Quang Trung, từ đó Mỹ Chánh mới được xuất đinh, xuất tịch.
 Vấn đề tồn nghi là: theo Quang Trung (nói tắt) thi đã được tách vào những năm 1792 (Vua Quang Trung còn sống), nhưng theo cọc mốc (Gia long) thì đến năm 1811 Mĩ chánh vẫn là một thôn của An Thơ. Có ý kiến nghi ngờ rằng Gia long không chấp nhận chỉ dụ của Quang Trung trước đấy?.
Chưa biết chính xác tách năm nào, nhưng căn cứ vào Quốc Triều Hương Khoa lục của Đại học sĩ Thượng Thư Cao Xuân Dục thi chắc chắn được tách trước năm 1834  bởi ông Nguyễn Văn Sĩ người xã Mĩ Chánh thi đổ Tiến sĩ khoa Giáp Ngọ, Minh Mạng thứ 15 (1834) làm quan đến chức     Ngự sử.
                      Email: nhuxuan29@gmail.com
Xin kèm theo đây sĩ phu hai bờ Ô lâu để tham khảo;
Hai bờ Ô lâu (Sao lục trong Quốc triều Hương khoa lục)

Sĩ phu triều Nguyễn ( Gia Long- Khải Định)
TT
Họ và tên
Nămđỗ
Triều vua
Chức vụ

An thơ



1
Ng: Đức Hoat
1828
M.mạng
Thượng Thư Bộ Hộ
2
Ng: ĐứcHoa
1835
M.mạng
Tuần Phủ Khánh hoà
3
Ng: đức Tư
1847
Thiệu trị
Tri phủ
4
Ng: quang Huy
1846
Thiệu trị
Biên tu Nội các
5
Ng: Di
1891
Th. Thái
Không ghi tên quan trường
6
Ng: Đức Đàn
1906
Th. Thái
Đậu lúc 27 tuổi, Tri huyện

Hưng nhơn



1
Ng: Đức Trứ
1840
M.mạng
Bố chánh
2
Ng: Đức Giản
1852
Tự đứcị
Viên ngoại lang
3
Ng: Đức Dĩnh
1858
Tự đức
Tri phủ

Văn quĩ



1
Ng: Trần Vịnh
1878
Tự đức
Tri phủ

Câu nhi



1
Ng:TăngDoãn
1847
Thiệu trị
Thượng thư Bộ Lại
2
Ng: tăng Ý
1873
Tự đức
Phủ thừa

Hà lộc



1
Lê Toại
1888
Đ.khánh
Không ghi tên quan trường

Lương Điền



1
Lê Văn Khôi
1918
Kh.định
Đậu 27 tuổi,không ghi chức

Mĩ chánh



1
Ng: Văn Sĩ
1834
M.mạng
Ngự sử
2
Ng: Văn Hiển
1846
Thiệu trị
Tri phủ sứ Phú yên
3
Ng: Văn Đỉnh
1855
Tự đức
Không ghi tên quan trường
4
Ng: Văn Sách
1855
Tự đức
Khg ghi chức quan trường
5
Hồ Tiểu Viên
1906
Thh thái
Huấn đạo
6
Ng: đức Thố
1906
Thh thái
Tú tài lúc 29 tuổi,  bát phẩm

Mĩ Xuyên



1
Lê Đô Lương
1841
Thiệu trị
Không ghi tên quan trường
2
Lê Huyên
1909
Duy tân
Huấn đạo

Lương Mai



1
Ng; Tuyển
1847
Thiệu trị
Tri phủ